Việt Nam đã quyết định xây hai nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận, giữa lúc có những lời ủng hộ và phản đối. Trong câu chuyện doanh nghiệp hôm nay, mời quý vị theo dõi các lời giải thích của một chuyên gia người Mỹ gốc Việt về dự án tiêu tốn 200 ngàn tỷ đồng, hoặc 11 tỷ 200 triệu đô la này.
Tiến sĩ Phùng Liên Đoàn, 70 tuổi, tốt nghiệp ngành vật lý và nguyên tử tại trường đại học công nghệ Massachusetts Institute of Technology (MIT). Trước năm 1975, ông phục vụ tại Viện Nghiên Cứu Hạt Nhân Đà Lạt từ năm 1964 đến năm 1967. Hiện nay, ông là Tổng Giám Đốc công ty tư vấn Professional Analysis, Inc. (PAI) có văn phòng tại hai bang Tenessee và Nevada. Trong số khách hàng của công ty có Bộ Năng Lượng (DOE) và Cơ Quan Giám Định Luật Lệ Hạt Nhân (NRC) của Mỹ.
Tiến sĩ Phùng Liên Đoàn đã tham gia thiết kế 4 nhà máy điện hạt nhân và viết hơn 100 khảo cứu và phúc trình về sự an toàn và giá thành của điện hạt nhân so với các nguồn tạo điện khác.
Ông Đoàn và gia đình đã dành nhiều tiền tiết kiệm và tiền nghỉ hưu để làm việc từ thiện ở Việt Nam.
Trong buổi trao đổi lần này, chúng tôi đã nhờ Tiến sĩ Đoàn giải thích một cách đơn giản những suy nghĩ của ông về dự án nhà máy điện hạt nhân trong tỉnh Ninh Thuận vừa được chính phủ Việt Nam quyết định tiến hành.
Dự án gồm 2 nhà máy, và nhà máy đầu tiên trong xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam sẽ được xây vào năm 2014, đưa tổ máy đầu tiên vận hành vào năm 2020.
Trước tiên, TS Đoàn cho rằng ông rất tiếc khi thấy chính phủ Việt Nam đã sử dụng những giả thiết rất thô sơ để đưa tới một chính sách có thể nói là rất quan trọng cho một quốc gia. Ông nói tiếp:
“Lý do thứ hai, điện hạt nhân rất đắt đỏ, đắt gấp ba bốn lần cách làm ra điện tại Việt Nam bây giờ. Phải đầu tư bằng một món tiền rất lớn, bằng cả ngân sách toàn thể quốc gia của Việt Nam. Vậy mà 10, 15 năm nữa chưa chắc đã có điện dùng. Chính vì lý do đó nên rủi ro rất cao, ta sẽ tiêu tốn rất nhiều tiền, không phải là 12 tỉ đô la giống như đã nói trên sách báo, mà sự thực là sẽ tới từ 30 đến 35 tỉ đô la cho các nhà máy điện hạt nhân như vậy.
Ngoài ra, vì lý do kỹ thuật của điện hạt nhân rất tinh vi, đòi hỏi rất nhiều nhân sự, thời gian, thiết bị đắt tiền; rủi ro cao có kiện cáo với các công ty ngoại quốc, mình phụ thuộc vào họ hầu như 100%, và sự kiện cáo sẽ rất lớn, cũng giống như các công ty hiện nay ở Mỹ, Phần Lan đều có những vụ kiện cáo, bởi vì cuối cùng vẫn là tranh chấp về tiền. Mình không đủ tiền để trả cho những đòi hỏi của họ, và họ đòi hỏi mình nhiều tiền hơn, thành ra hai bên hay kiện tụng nhau. Và khi có kiện tụng, mình phải ra trước tòa án quốc tế, chứ mình không thể đơn phương đứng ra xử, như xử các công ty Việt Nam.
Chính vì những lý do đó nên các rủi ro rất cao. Trong khi đó, sản phẩm cuối cùng vẫn chỉ là điện mà thôi, điện của nhà máy điện hạt nhân thì cũng giống điện của nhà máy thủy điện, nhà máy than; và chính phủ Việt Nam đã nói rõ là ta không muốn làm bom, tại sao ta lại tìm phương pháp khó khăn, bụi gai bụi rậm mà ta đi vô, thay vì đi bằng con đường dễ dàng, quang đãng để có điện cho người dân dùng.”
TS Đoàn nhấn mạnh đến vấn đề nhân lực :
“Chính Việt Nam cũng nói ta không có người. Chính ông Giám đốc các cơ quan nguyên tử của Việt Nam nói rằng nhân sự của Việt Nam trong hai ba chục năm qua thì những người đã được đào tạo bài bản thì họ đã già mất rồi, những người trẻ sau này thì đi theo những trào lưu dễ dàng hơn là đi làm điện nguyên tử hoặc đi khảo cứu về hạt nhân. Thành ra có thể nói rằng ta phải đào tạo từ đầu, và cái giả thiết của những người muốn xây nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam cũng rất thô sơ
Họ nói rằng Việt Nam có nửa triệu sinh viên đậu đại học, chỉ cần gửi 5.000 người đi ngoại quốc, và trong 5.000 đó chỉ có 10% tức là 500 người quay trở về Việt Nam thì ta cũng đủ sức rồi. Nói như vậy thì quá thô sơ và dùng tài nguyên quốc gia phung phí quá bừa bãi. Họ đâu biết rằng làm như vậy là đưa chất xám Việt Nam đi học những chuyện không cần thiết, trong khi những việc rất cần thiết cho kinh tế Việt Nam thì không được chú trọng.
Gửi 5.000 người đi ngoại quốc là mất 250 triệu đô la, mình đâu đủ tiền mà làm như vậy, nhưng vẫn cứ làm và chấp nhận mất đi 90%. Đó không phải là một chính sách quốc gia.”
Các nhà khoa học bên trong Việt Nam cũng có nhiều người khuyên can là không nên tiến hành dự án này. Chúng tôi hỏi TS Đoàn các ý kiến của ông có khác nhiều so với ý kiến của các nhà khoa học bên Việt Nam hay không. Ông nói:
“Không, các nhà khoa học có trách nhiệm ở Việt Nam như giáo sư Phạm Duy Hiển và một vài người khác mà tôi biết đều có cùng một quan điểm là nếu ta chỉ muốn sản xuất điện không thôi thì tại sao ta lại chọn cách đắt gấp ba gấp bốn lần cách ta có ?
Tôi không thấy có sự hãnh diện nào cho Việt Nam cả, bởi vì ba bốn chục nước đã có điện hạt nhân rồi, ta không phải là nước duy nhất. Cái hãnh diện quan trọng nhất là làm sao cho người dân được sung sướng, hạnh phúc, và ngoại quốc kính nể sự thành thật, chính đáng, quân tử, tánh tình tốt của người dân mình; không phải chỉ hời hợt bên ngoài là tôi cũng có điện hạt nhân. Bởi vì ta đâu có làm ra cái đó, ta đi mua của người ta, đi vay của người ta. Thành ra những cái đó là những sự tiêu pha phung phí của một người mà Việt Nam gọi là ‘công tử bột,’ không biết gì nhưng cứ làm bừa đi để mà lấy làm hãnh diện, một thứ hãnh diện sai.”
Và sau đây là những ý kiến khác của TS Đoàn trước khi chấm dứt buổi trao đổi với VOA :
“Người Việt Nam trong và ngoài nước ai cũng muốn thấy dân giàu ; nước mạnh; xã hội công bình, dân chủ, văn minh; giống hệt những điều mà chính phủ Việt Nam nói. Nhưng khi sử dụng ngân sách quốc gia cần phải có thứ tự, những gì quan trọng nhiều thì làm trước.
Điều quan trọng nhất ở Việt Nam bây giờ là làm sao xóa đói giảm nghèo, cứu trợ những người bị lụt lội, xây nhà thương cho bệnh nhân, trường học cho trẻ em là thế hệ tương lai. Làm điện hạt nhân là chuyện rất phí phạm. Tôi tiên đoán là trong 10 hay 15 năm nữa ta cũng chưa có điện hạt nhân đâu.
Những người làm chính sách nên suy nghĩ ngay từ bây giờ, giảm bớt những phung phí như đưa người đi khắp thế giới đi thăm nhà máy này nhà máy nọ; gửi người đi học điện hạt nhân một cách phung phí; trong khi những việc quan trọng nhất, ngay bên cạnh chúng ta - như xe cộ, vệ sinh công cộng, nước sạch cho người dân - đều không có hoặc chỉ có ít thôi. Thế thì ta nên chú trọng những chuyện đó, nó quan trọng hơn cho sự hãnh diện của quốc gia, và quan trọng hơn cho hạnh phúc của người dân.”
Huy Phương
Điện hạt nhân sẽ đắt gấp ba
Tôi không có Báo cáo đầu tư (BCĐT) của Chính phủ, nhưng nghe kể lại báo cáo này khẳng định Nhà máy Điện hạt nhân Bình Thuận sẽ tốn 11 tỉ USD. Tôi hiểu rõ con số này vì tôi đã từng đánh giá hơn 50 nhà máy Điện Hạt Nhân ở Mỹ [ xem ghi chú số 2, 3, 4, 5 ở cuối bài ] cùng là xem các đánh giá mới nhất của Vựa tư tưởng Năng lượng tại Viện Kỹ thuật Massachusetts ( Massachusetts Institute of Technology — MIT ) [6] có ảnh hưởng rất lớn đối với chính sách Điện Hạt Nhân ở Mỹ. Tôi xin cắt nghĩa các yếu tố quan trọng của giá thành điện hạt nhân dưới đây.
Giá “mì ăn liền” và Giá “xây lâu đài”
Nếu ta mua một nhà máy Điện Hạt Nhân như ta mua một xe hơi, “sáng ngủ dậy thì có xe ngay để lái” thì giá tiền ta trả gọi là giá “mì ăn liền” ( tiếng Mỹ gọi là “overnight cost” ). Nhà máy Điện Hạt Nhân 2 x 1350 MW Công ty điện NRG ở Texas dự định mua của Toshiba và General Electric năm 2007 thuộc loại này, với giá là 2600 USD/kW ( nhưng nhà máy không thể giao như xe hơi! ). Nhà máy Điện Hạt Nhân muốn xây thêm ở Turkey Point của Công ty Florida Power and Light ( nơi tôi có bạn làm việc ), 2 x 1100 MW, dự định mua của Mitsubishi và Westinghouse thì giá 5500 tới 8200 USD/kW thuộc loại giá xây cất lâu đài – cứ xây đâu thì đi vay tiền trả đấy, rồi tới khi xây xong hoàn toàn và bắt đầu vào ở thì kết toán tổng cộng tất cả tiền chi phí kể cả tiền trả lãi nhà băng. Tiếng Mỹ gọi giá này là giá đầu tư ( investment cost ).
Dĩ nhiên, “giá đầu tư” là quan trọng nhất, bởi vì nó là giá “mì ăn liền” ở thời điểm khi nhà máy bắt đầu hoạt động một cách trơn tru, đủ sức cho ông chủ thâu tiền điện để trả nợ ngân hàng, mua nhiên liệu mỗi 18 tháng một lần, trả tiền lương cho hơn 500 công nhân chuyên nghiệp, đóng tiền bảo hiểm cho việc xử lý các nhiên liệu phóng xạ cao, đóng tiền bảo hiểm tẩy uế phóng xạ khi nhà máy hết hoạt động, và lấy lời chút ít. Trong các lời chào bán của các công ty quốc tế, họ chỉ tính giá “mì ăn liền” ở thời điểm thương lượng, còn “làm sao có tiền, xây dựng cách nào, ở đâu, đã có hạ tầng cơ sở chưa, đã có ai cho vay tiền chưa” thì ta phải lo. Nếu ta là công tử Bạc Liêu không biết nhiều về các chi tiết rất chuyên nghiệp thì họ cũng lo giùm cho ta một phần, nhưng giống như mọi dịch vụ kinh tế, ta phải “trả thêm”, và số tiền trả thêm này sẽ diễn ra chóng mặt. Khi ta đã nhúng tay vào chàm thì ta khó có thể rút ra mà sạch tay được. Thực ra, đến lúc đó, hầu hết chúng ta đã già hoặc qua đời, việc trả tiền này con cháu ta phải lo. Với sức học và kinh tế của 70% - 80% của con cháu ta còn thô sơ, và với nghề nghiệp như may mặc, đánh bắt tôm cá, trồng lúa và cà phê, xuất khẩu nguyên liệu thô, và đi làm thuê ở nước ngoài… chúng có đủ sức lo không?
Tài Liệu năm 2009 về giá “mì ăn liền” của nhà máy Điện Hạt Nhân
Báo cáo MIT [6] do 6 vị Giáo sư, Kỹ sư và chuyên gia nổi tiếng, trong đó 3 người là bạn học của tôi và hai người đã từng làm Bộ trưởng Bộ Năng lượng Mỹ (DOE) và Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương của Mỹ ( Central Intelligence Agency ), cho ta biết những con số sau :
* Giá “mì ăn liền” vào năm 2007 của 11 nhà máy Điện Hạt Nhân tại Nhật và Hàn Quốc, tổng cộng 13.582 MW, là 3496 USD/kW ( đồng đô la năm 2007 ). MIT đổi ra giá “mì ăn liền” năm 2009 là 4000 USD/kW. Giá này được tính toán cẩn thận với các yếu tố như: thời điểm khánh thành, giá nhà máy, giá hạ tầng cơ sở, hối suất giữa tiền Nhật, tiền Hàn và tiền Mỹ theo từng thời điểm.
* Giá “mì ăn liền” năm 2007 của 6 nhà máy Điện Hạt Nhân, tổng cộng 13.757 MW là 3805 USD/kW ( đồng đô la năm 2007 ). MIT đổi ra giá “mì ăn liền” năm 2009 là 4000 USD/kW. Đây là khảo giá và tính toán của 6 công ty điện lớn tại Mỹ, mỗi công ty đều ngang cỡ hoặc lớn hơn Điện Lực Việt Nam, đang dự định xây trong phong trào “tái sinh – renaissance” của điện hạt nhân, bắt đầu khoảng 2014 - 2018 ( giống Việt Nam ). Và họ mới chiêng trống rùm beng nhưng chưa làm gì bởi vì còn sợ “mắc kẹt” nếu không có Chính phủ Mỹ bảo trợ về giá cả.
* Giữa năm 2003 và 2009, khi báo cáo MIT có ảnh hưởng lớn tới chính sách Hợp Tác Điện Hạt Nhân Toàn Cầu ( GNEP – Global Nuclear Energy Partnership ) của Bộ Năng lượng Mỹ (DOE), thì giá “mì ăn liền” của nhà máy Điện Hạt Nhân tăng 15% mỗi năm, cho tới nay là 4000 USD/kW ( tiền đô la năm 2009 ). Hiện tượng này là do các công ty nguyên tử “va chạm với thực tế” khi phải thực sự ký giao kèo với các hãng điện tại những nơi “có nhu cầu thật sự” và có tiền như Trung Quốc, Phần Lan, Nhật và Hàn Quốc, chứ không phải chỉ “có ý định” và tiền thì còn phải tính đi vay hoặc xin viện trợ. Vì phải đụng tới túi tiền theo kinh tế thị trường và không thể duy ý chí, họ phải tính thật kỹ trước khí ký giao kèo để không bị kiện tụng hoặc cháy túi khi thực tế diễn ra. Vậy mà họ vẫn lo rủi ro lỗ vốn, bởi vì nhà máy Điện Hạt Nhân có cả ngàn chi tiết, nhiều gấp bội các phi thuyền không gian mà tôi biết được qua khảo cứu sự an toàn của nhà máy Điện Hạt Nhân trong công trình WASH-1400 năm 1975 [2].
Cách tính nhanh chóng giá đầu tư từ giá “mì ăn liền”
Công thức sau đây là cách giản dị tôi đã dùng để tóm tắt các phép tính rất phức tạp cho việc tính giá các công trình xây dựng to lớn trong những năm 1980 khi tôi khảo sát tại sao giá thành của hơn 50 nhà máy Điện Hạt Nhân của Mỹ lại đắt gấp 2-5 lần giá loan báo khi bắt đầu ký giao kèo [5].
* Gọi C1 là giá “mì ăn liền” Nhật, Mỹ hay Pháp chào bán với ta, tính theo USD ở thời điểm 0 ( hôm nay ). Đây có thể là giá 11 tỉ USD cho 4 nhà máy 1000 MW, hay 2750 USD/kW mà chính phủ báo cáo vì nó cũng tương tự với giá Toshiba và General Electric chào bán cho hãng NRG tại Texas năm 2007.
* Gọi C2 là giá ta phải chi để chọn địa điểm, thực hiện hạ tầng cơ sở, xây đường xá bến cảng, xây đường dây truyền điện vào hệ thống 500 KV Bắc Nam. Theo báo cáo MIT [6], thì C2 là khoảng 20% C1 ở Mỹ và Nhật. Theo tôi, giá này phải trên 30% C1 ở Việt Nam vì nhiều lý do dễ hiểu.
* Gọi T là thời gian từ khi bắt đầu xây cho tới khi xây xong. Chỉ có Nhật và Hàn Quốc mới có kỷ lục xây trong 5 năm. Các nước khác như Pháp, Mỹ và Anh đều chưa có kinh nghiệm này. Hai nhà máy EPR do Pháp đang xây ở Phần Lan và ở Pháp chắc chắn sẽ mất tới 7 năm.
* Gọi I là chỉ số vật giá xây dựng leo thang. Chỉ số này cao hơn chỉ số vật giá leo thang hàng ngày mà người dân biết rất rõ. I ở Mỹ và các nước tiên tiến là khoảng 5%/năm trong vài năm qua, nhưng ai cũng biết là I sẽ tăng lên hơn nhiều trong vài năm tới bởi vì nước nào cũng in tiền lạm phát để chống nạn khủng hoảng kinh tế ghê gớm nhất kể từ 80 năm trước ( năm 1929 ). I ở Việt Nam là trên 10%/năm cho các công trình lớn như xây đập Hòa Bình, Nhà máy lọc dầu Dung Quất.
* Gọi L là lãi suất ta phải trả khi đi vay tiền, bao gồm cả sự kiện vật giá leo thang. Với lãi suất đi vay khoảng 8%/năm và lãi suất “có thể kiếm ra – opportunity cost of money” ngày nay, khoảng 10% - 15%/năm, thì L tại Mỹ có thể tính ra là 11% - 13%/năm. I ở Việt Nam có thể lớn hơn 5%/năm nhưng L có thể nhỏ hơn 11%/năm vì ta nghèo, luôn luôn được quốc tế cho vay với phân lãi nhẹ.
* Gọi BĐX là thời điểm ta có đủ điều kiện để bắt đầu xây, ví dụ 2015. Các điều kiện là : có tiền sẵn sàng tại nhà băng và chính phủ quốc tế bảo lãnh để có thể chi trả ngay như giao kèo; có đủ đội ngũ thầy và thợ chuyên môn để công ty ngoại quốc không phải mang tới cả ngàn kỹ sư và công nhân ( mỗi người sẽ lãnh lương nhiều gấp 10 - 100 lần công nhân Việt Nam ); có đủ các vật liệu cần thiết và công nghệ phụ để không phải nhập cảng với giá cao hơn là thiết kế… Ta có thể dùng con số thực tế như BĐX là 2015 để có nhà máy năm 2022.
* Gọi GĐT là giá đầu tư ở thời điểm nhà máy Điện Hạt Nhân bắt đầu sản xuất điện năm 2022.
Công thức phỏng định để tính giá đầu tư ở thời điểm BĐX + T là như sau :
GĐT = [ ( 1+ I) ^ ( BĐX - 2010 )] [ C1 +C2 ] [ ( 1 + L )^ T ]
(I và L viết theo số; 5% = 0,05)
Dùng các tài liệu 2009 của MIT [6], và các giả thiết khiêm nhường nhưng thực tế với C2 = 30 C1, BĐX = 2015, T =7, I = 5%/năm và L = 12%/năm, công thức trên cho ta vài con số “kinh khủng” sau:
* Giá nhà máy Điện Hạt Nhân đầu tiên tại Ninh Thuận sẽ là 9775 USD/kW vào năm 2022 so với giá “mì ăn liền” là 2750 USD/kW năm 2010, hay gấp 3,6 lần. Giá các nhà máy kế tiếp sẽ đắt hơn bởi vì trễ hơn, trừ phi ta có thể rút ngắn thời gian xây ( mà Mỹ, Anh và Pháp cũng chưa làm được ).
* Giá của nhà máy Điện Hạt Nhân đầu tiên tại Ninh Thuận sẽ là 11.800 USD/kW vào năm 2022, nếu ta dùng giá C1= 3330 USD/kW của MIT như báo cáo của MIT [6]. So với giá “mì ăn liền” của BCĐT thi cao gấp 4.3 lần. Các giá này cũng không xa giá thành của các công ty điện của Mỹ tính cho những năm 2020 - 2025.
Giá Điện Hạt Nhân sẽ gấp ba lần giá ngày nay
Giá điện bán ra từ nhà máy Điện Hạt Nhân, hay than, hay khí đốt, hay đập nước, gồm sáu thành phần: trả vốn và lãi tiền đầu tư, tiền nhiên liệu, tiền xử lý nhiên liệu có phóng xạ cao, tiền điều hành, phí tổn phá dỡ tẩy uế phóng xạ sau 40 - 60 năm hoạt động, và tiền lời. Nếu không phải là nhà máy Điện Hạt Nhân thì các phí tổn liên quan tới phóng xạ là không có.
* Với giá đầu tư khoảng 10.000 USD/kW vào năm 2022 mà ta phải gánh vác trả “vốn và lời” hàng năm cho ngân hàng khoảng 14% mỗi năm ( gọi là carrying charge – gánh vác trả vốn và lời ) thì mỗi năm tốn là 1400 USD. Nếu nhà máy có năng suất 90% ( một việc mà sau 20 năm hoạt động Mỹ mới thực hiện được ) thì số điện sản xuất là 7884 kWh/kW, hay giá đầu tư tốn 1400/7884 là 0,178 USD/kWh.
* Giá nhiên liệu hạt nhân rất nhỏ, chỉ khoảng 0,02 USD/kWh ( năm 2022 ). Tôi sẽ không nói nhiều hơn ở đây vì có nhiều chi tiết nguyên tử và thương mại rắc rối khi tính giá nhiên liệu hạt nhân.
* Ngoài giá mua các thanh nhiên liệu ban đầu và mỗi 18 tháng, ta còn phải thu tiền để xử lý các thanh nhiên liệu sau khi đã dùng. Việc xử lý này ở Mỹ chính phủ bảo đảm là 0,001 USD/kWh từ 20 năm nay, nhưng sẽ tăng vì vật giá chuyên môn leo thang ( chỉ số I ). Việt Nam sẽ còn phải trả tiền chuyên chở rất diệu vợi ( vì có nhiều luật pháp an toàn cũng như chống ăn cắp làm bom ). Tôi phỏng tính là 0,002 USD/kWh hay 10% giá nhiên liệu.
* Một nhà máy Điện Hạt Nhân 1000 MW sẽ cần khoảng 500 - 700 nhân viên làm việc rất chuyên môn và kỷ luật. Họ gồm Ban Quản đốc, Ban Điều khiển lò Điện Hạt Nhân, Ban Điều khiển các hệ thống làm điện, Ban Xử lý phóng xạ, Ban Bảo trì nhiều ngàn chi tiết theo định kỳ hàng ngày, Ban Chuyên chở và Ban Bảo vệ. Lương bổng của những người này cùng là vật liệu họ dùng trong công tác cũng tốn khoảng 0,02 USD/kWh, xấp xỉ giá nhiên liệu hạt nhân.
* Tiền nhà máy Điện Hạt Nhân phải thu và để dành vào một quỹ DDR ( decommissioning, decontamination and removal – ngừng hoàn toàn, tẩy uế phóng xạ và phá dỡ để môi trường trở lại hình thái thiên nhiên ). Sau 40 - 60 năm hoạt động, tiền này dùng để tẩy uế phóng xạ và phá dỡ mọi xây cất để Ninh Thuận trở về trạng thái thiên nhiên giống như ngày nay ( một việc chắc chắn rất khó làm được kể cả khi có tiền ). Kinh nghiệm phá dỡ các nhà máy Điện Hạt Nhân đã hoạt động trên 30 năm như Yankee Rowe, Shippingport, Big Rock và Fort St Vrain ở Mỹ cho biết là phí tổn này tương đương với khoảng 10% giá đầu tư, tính theo thời điểm BĐX.
Nếu nhà máy Điện Hạt Nhân chỉ lấy lời một trinh ( 0,001 USD ) cho mỗi kWh điện sản xuất, thì giá điện năm 2022 sẽ là :
* 0,239 USD/kWh. [ 0,178 ( tiền trả vốn và lãi ) + 0,02 ( giá nhiên liệu ) + 0,002 ( giá xử lý nhiên liệu đã dùng ) + 0,02 ( giá điều hành ) + 0,018 ( tiền phá rỡ ) + 0,001 ( tiền lời )].
* 4183 VND/kWh. [ dùng hối suất là 1 USD = 17,500 VND ].
* Như vậy, giá điện năm 2022 sẽ gấp khoảng ba lần giá điện hiện nay (2009). Ta có thể hi vọng 90 - 95 triệu người dân vào năm 2022 sẽ có thâu nhập cao gấp ba thâu nhập ngày nay hay không ?
Giá điện nhà máy đốt than rẻ hơn vì giá đầu tư thấp hơn
Giá đầu tư của nhà máy than kể cả các phụ kiện lọc chất SOx ra khỏi khói thì rẻ hơn nhà máy Điện Hạt Nhân tới 35%. Nhưng giá nhiên liệu đắt hơn nhiều, vì mỗi năm một nhà máy than 1000 MW sẽ phải đốt khoảng 4 triệu tấn than giá khoảng 52 USD/tấn hay 0,026 USD/kWh năm 2009; và với I = 5%/năm thì giá 94 USD/ tấn hay 0,047 USD/kWh vào năm 2022. Than của ta chắc phải rẻ hơn như vậy. Nếu nhà máy than phải thu khí carbonic đem đi chôn ( carbon sequestration ) như các nước tân tiến đang muốn làm để giảm thiểu hiện tượng hâm nóng khí quyển, thì giá nhiên liệu than sẽ tăng lên thành 0,084 USD/kWh năm 2022, tương dương với 169 USD/tấn ( năm 2022 ). Hiện nay, Mỹ và Trung Quốc mỗi nước đốt hơn 1 tỉ tấn than mỗi năm, và cùng với dầu khí, hai nước này thải ra 45 – 50% khí carbonic của toàn thế giới. Việt Nam thải ra khí quyển không bằng vài phần nghìn Mỹ và Trung Quốc, vì thế ta không nên “mê” Điện Hạt Nhân mà lấy lý do là giúp nhân loại “tránh hiện tượng hâm nóng khí quyển”. Vấn đề dân sinh của ta quan trọng hơn, và dân sinh chỉ tốt nếu ta không mắc nợ đầm đìa và có thể tự lập mà không phải đi xin viện trợ. Nhà máy điện dùng than ở Việt Nam, nếu điều hành tốt như ta tự tin “thừa sức điều hành nhà máy Điện Hạt Nhân”, thì sẽ đem lại điện rẻ hơn điện của nhà máy Điện Hạt Nhân ít nhất 25%.
Giá thủy điện rẻ nhất
Đập nước nếu xây thật tốt thì có giá đầu tư khá cao. Nước không mất tiền nhưng tùy mùa và không phải lúc nào cũng có ( ví dụ hạn hán ). Phí tổn điều hành một đập thủy điện cũng rất thấp. Giá điện ở những nơi có nhiều đập nước chỉ khoảng 0,03 - 0,04 USD/KWh vào năm 2009 – như ở Tây Bắc nước Mỹ và Canada, Newfoundland ở miển Đông Canada, Vân Nam và Tam Điệp ở Tây Nam Trung Quốc. Giá điện từ các đập nước tại Việt Nam cũng vậy. Nhiều người bắt chước các nước văn minh muốn hạn chế việc ta dùng thủy điện với lý do “bảo vệ môi trường”. Theo tôi, đó là ý kiến “không Việt Nam”. bởi vì ta có nhiều rừng núi mà ta lại nghèo, nên ta cần tận dụng nguồn điện này, lớn như Hòa Bình, Sơn La, nhỏ như một dòng sông, miễn là ta triệt để học hỏi các kiến thức đã có sẵn về cách bảo vệ sinh vật, thực vật, lịch sử, nhân văn và kinh tế và dùng phương pháp chống lũ lụt hữu hiệu để làm đời sống của người dân trong vùng đỡ lam lũ hơn. Việc học hỏi này cũng dễ thực hiện nếu ta quyết tâm. Vào những năm 1980 tôi có giúp chương trình xây đập Hòa Bình bằng những văn kiện chống lũ lụt và giúp người dân sinh sống tốt đẹp hơn của chương trình Tennessee Valley Authority từ 1930 cho tới 1980. Những kiến thức này cần một tinh thần tự lập, cầu tiến, minh bạch, và liêm khiết cao mà văn hóa “chờ lệnh ở trên” không huy động được. Các sự cố rất xấu đều có thể xảy ra nếu ta không vun trồng những đức tính đó. Các kinh nghiệm ở Quảng Nam và Tuy Hòa trong cơn bão số 9 và số 11 năm 2009 chứng tỏ người có trách nhiệm điều khiển đập tại địa phương chưa có trách nhiệm chuyên nghiệp và tinh thần gắn bó với nghề nghiệp của mình. Sự chuyên nghiệp và gắn bó tại nhà máy Điện Hạt Nhân thì còn khó hơn nhiều, giống như phi công phải chuyên nghiệp và gắn bó với máy bay đắt tiền ( trên 100 triệu USD ) và sinh mạng của 200 hành khách.
Giá điện từ nhà máy khí đốt rẻ nhưng còn tùy thuộc ở nguồn khí
Nhà máy đốt khí từ các mỏ dầu có giá đầu tư rất thấp ( chỉ khoảng 25% Điện Hạt Nhân ) mà lại có sức sản xuất điện rất cao – cao hơn 20% Điện Hạt Nhân và nhà máy đốt than. Chi tiết kỹ thuật này tiếng Mỹ gọi là “heat rate” – số calori nhiên liệu phải dùng để tạo một kWh. Từ trước đến nay, giá hơi khí rất cao vì khí đốt tốt hơn dầu và than nhiều. Nhưng vì khó lưu trữ và khó chuyên chở, giá hơi khí thấp hơn dầu thô, khoảng 7 USD/mmBtu vào những năm qua, tương đương với giá 40 USD/thùng dầu thô ( hiện nay giá dầu thô là 70 - 75 USD/thùng ). Nhưng bây giờ giá xuống tới 5 USD/mmBtu, tương đương với 30 USD/thùng dầu thô. Sở dĩ hơi khí xuống giá như vậy vì người ta dùng kỹ thuật mới tìm ra là dưới đất có rất nhiều hơi khí. Kỹ thuật mới này là phương pháp khoan ngang ( khoan một giếng thẳng tới sâu nhiều trăm mét, rồi khoan nhiều đường ngang trổ ra bốn phương ở nhiều độ thấp khác nhau ). Nhờ đó mà trong vài năm qua Mỹ đã có nhiều hơi khí đến nỗi đang thúc đẩy một chương trình dùng hơi khí tạo điện, chạy xe hơi, sưởi ấm 50 triệu căn nhà trong nhiều chục năm tới. Việt Nam cũng có hơi khí dùng làm điện và có thể có hơi khí khắp nơi. Tôi hi vọng ta sẽ tìm đủ mọi cách khám phá thêm trữ lượng khí đốt ở mọi nơi – bằng phương pháp khoan ngang, như khoan ở “bể than sông Hồng,” vịnh Bắc Bộ, bờ biển đồng bằng sông Cửu Long, và trên Tây Nguyên. Nhiệm vụ quan trọng và cao cả của Quốc hội là làm sao 90 - 95 triệu người dân Việt Nam vào năm 2020 - 2025 có nhiên liệu nấu ăn hàng ngày, có điện thắp đèn ban đêm, và có nhiên liệu để đi lại. Các vấn đề này có thề thực hiện bằng nhiều phương pháp nhanh hơn, tốt hơn, an toàn hơn ( cho quốc gia ), và nhất là rẻ hơn Điện Hạt Nhân.
Lời Kết
Muốn kinh tế tăng trưởng, việc sản xuất điện là rất cần thiết. Tuy nhiên, theo thông tin tôi có, Quốc hội cần nhiều thời gian bàn cãi cho kỹ lưỡng hậu quả kinh tế và quốc phòng của việc mua nhà máy Điện Hạt Nhân. Hậu quả này không phải ở rủi ro “an toàn phóng xạ”, bởi vì nhà máy Điện Hạt Nhân sẽ không bao giờ giết người nhiều như tai nạn giao thông, bệnh tật do môi trường và thực phẩm thiếu vệ sinh, ung thư do các chất hóa học mà ta ăn uống hàng ngày, đập nước bị vỡ tàn phá nhiều làng mạc, trẻ em bị chết đuối, hoặc hậu quả của nước và khí thải từ các nhà máy Vedan và nhà máy hóa học như nhà máy lọc dầu. Rủi ro lớn nhất của nhà máy Điện Hạt Nhân là rủi ro “an toàn kinh tế, tài chính và quốc phòng” bởi vì nhà máy Điện Hạt Nhân quá đắt tiền so với các cách làm điện khác, xây rất lâu, điều hành rất khó, phụ thuộc ngoại quốc 100%, dễ là tiêu điểm phá hoại khi có nội loạn hoặc chiến tranh. Rủi ro nhà máy Điện Hạt Nhân nằm chết là rất cao, làm kinh tế và quốc phòng tê liệt. Rủi ro làm người dân kiệt quệ vì nai lưng trả nợ cũng rất cao. Nhu cầu Điện Hạt Nhân của ta không thể đi trước các nhu cầu cấp bách nhãn tiền như giáo dục trẻ thơ; giáo dục thanh thiếu niên; giáo dục và bảo vệ người đi làm mướn ở ngoại quốc; chữa bệnh tật cho người dân; giúp sửa sang nơi ăn chốn ở cho nhiều triệu người khốn cùng; chăm sóc vệ sinh răng miệng cho 90% người dân ( 80 triệu người ); và chăm sóc người già, người tật và những người còn mang dư nợ của chiến tranh.
Dĩ nhiên ta cần sản suất điện, nhưng tôi hi vọng Quốc hội hãy bàn là tại sao ta xuất khẩu than qua Trung Quốc; tại sao ta nói đến bể than sông Hồng; tại sao ta không tìm nguồn khí đốt tích cực hơn; tại sao ta không sửa sang lại mạng lưới truyền điện chằng chịt ở thành phố mà sự mất điện vì hiệu ứng Ohm đáng giá vài tỉ USD; tại sao ta không xem bao nhiêu văn phòng Chính phủ dùng máy làm lạnh không khí nhưng có rất nhiều lỗ hở và cửa kính thì quá mỏng; tại sao ta không bắt chước Úc dùng bóng đèn fluorescent thay vì bóng đèn hiện tại tốn điện gấp ba bốn lần. Đáp giải được những câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác sẽ đưa ta đến kết luận là ta chưa làm hết những việc dễ mà đã muốn nhảy vào làm việc “xôm” hơn nhưng có rất nhiều rủi ro cho tương lai của con cháu ta.
Tôi ước gì các nhà làm chính sách và thiết kế Điện Hạt Nhân có thể bỏ tiền túi của mình lập nên công ty làm nhà máy Điện Hạt Nhân thay vì dùng tiền thuế của dân hoặc đi vay nợ để mai hậu người dân phải trả. Khi các nhà máy này xây xong, thì phần lớn chúng tôi và quí vị lãnh đạo và thiết kế dự án hoặc đã chết, hoặc đã già, và chúng ta không ai còn chịu trách nhiệm với những gì xảy ra. Với kinh nghiệm tạo lập các dự án lớn ở nước ta, triển vọng rất lớn là các nhà máy Điện Hạt Nhân sẽ nằm chết nhiều tháng, nhiều năm, hoặc vì thiếu thiết bị, hoặc vì sự cố, hoặc vì phá hoại, hoặc vì chiến tranh. Bởi kinh tế của ta không tăng trưởng 15%/năm như điện lực muốn phát triển, người dân với thu nhập khoảng 40.000 VND/ngày không thể trả tiền điện giá 4000 VND/kWh để nấu một nồi cơm. Chính phủ tương lai có thể rơi vào tình trạng tài chính mà người ta gọi là “default – cháy túi không trả nợ được”, giống như nhiều nhà máy điện ở Mỹ đã gặp phải khi các nhà máy xây vào những năm 1960-1980 bị kéo dài và giá đầu tư tăng lên gấp 2, 3 có khi 5 lần giá dự toán [5]. Hơn nữa, sau khi nhà máy xây xong, chúng cứ trục trặc hoài không sản xuất nhiều điện như thiết kế vì người điều hành chưa có văn hóa Điện Hạt Nhân, thành ra tiền thâu vào không đủ sức trả vốn và lời cho tiền đầu tư. Đấy là Mỹ có kỷ luật lao động rất cao và không bị tàn phá bởi chiến tranh như Việt Nam.
Quốc hội là đại diện cho người dân làm chủ đất nước. Quốc Hội cần thảo luận thật kỹ về viễn kiến cho dân tộc trước khi quyết định về nhà máy Điện Hạt Nhân.
Ghi chú
[1] Ông Phùng Liên Đoàn, 70 tuổi, là Tổng Giám đốc Công ty tư vấn Professional Analysis, Inc. (PAI) tại Mỹ, chuyên môn về các dịch vụ nguyên tử và môi trường. Ông Đoàn đã từng là cố vấn cho Bộ Năng lượng ( Department of Energy - DOE ) và Cơ Quan Giám định luật lệ hạt nhân ( Nuclear Regulatory Commission - NRC ) của Mỹ. Ông đã tham gia thiết kế 4 nhà máy điện hạt nhân và viết hơn 100 khảo cứu và phúc trình về sự an toàn và giá thành của ĐHN so với các nguồn tạo điện khác. Ông cũng đã tham gia tẩy uế phóng xạ tại 10 trung tâm nguyên tử khắp nước Mỹ, cùng là khảo cứu hiện tượng hâm nóng khí quyển do việc sử dụng năng lượng toàn cầu. Ông là đồng tác giả tài liệu WASH-1400 về sự an toàn của 100 nhà máy Điện Hạt Nhân của Mỹ mà cả thế giới đã noi gương; và sách The Second Nuclear Era: A New Start for Nuclear Power, Praeger Publishers, New York, tiên đoán sẽ có sự phục sinh của Điện Hạt Nhân. Ông Đoàn tốt nghiệp Cử nhân toán và vật lý tại đại học Florida State University, Thạc sĩ vật lý và nguyên tử tại Massachusetts Institute of Technology (MIT) và Tiến sĩ nguyên tử tại MIT. Ông Đoàn đã từng làm việc tại Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, 1964-1967. Ông Đoàn và gia đình đã bỏ hầu hết tiền để dành và tiền hưu để làm việc từ thiện ở Việt Nam.
[2] U.S. Nuclear Regulatory Commission. 1975. WASH-1400 ( NUREG-75/014 ): Reactor Safety Study : An Assessment of Accident Risk in U.S. Commercial Nuclear Power Plants. Washington D.C. ( ông Đoàn là đồng tác giả ).
[3] Doan L. Phung. 1985. “Light Water Reactor Safety Before and After the Three Mile Island Accident,” Nuclear Science and Engineering, Volume 90, No.4, American Nuclear Society.
[4] Weinberg, Spiewak, Barkenbus, Livingston and Phung, 1985. The Second Nuclear Era: A New Start for Nuclear Power. Praeger Publishers.
[5] Doan L. Phung. 1983. ORAU/IEA-83-1 (M). “Economics of Nuclear Power: Past Record, Present Trends, and Future Prospects.” Institute for Energy Analysis, Oak Ridge Associated Universities, Oak Ridge, Tennessee, USA.
[6] John Deutch et al., MIT Energy Initiative, 2009. Update of the MIT 2003 Report “Future of Nuclear Power”, http://web.mit.edu/nuclear power/ Ông Đoàn quen với các tác giả. Ba trong 6 vị là bạn học của ông Đoàn. Hai trong 6 vị đã từng làm bộ trưởng DOE của Mỹ. Một vị đã từng là Giám Đốc CIA của Mỹ.
Nguồn http://niemtin.free.fr/
0 comments:
Post a Comment